Từ thuở thiếu thời, mỗi người chúng ta đã được nghe những lời ru của
bà, lời ca của mẹ, để rồi khắc sâu trong tâm khảm của mình; hay những
câu ca dao sâu nghĩa, nặng tình, nhẹ nhàng, trong trẻo về quê hương, đất
nước như theo ta trong suốt cuộc đời. Nhiều cụ cao tuổi, mắt đã mờ,
chân đã chậm, nhưng vẫn có thể đọc vanh vách những câu thơ trong “Truyện
kiều”, “Thạch sanh”… không nhầm lẫn. Hình ảnh đó thật đáng trân trọng.
Lớn lên, khi làm quen với các môn khoa học tự nhiên, kiến thức lôgic,
chặt chẽ nhưng khô khan làm cho nhiều học sinh gặp phải khó khăn trong
việc lĩnh hội, tiếp thu kiến thức. Hóa học cũng không phải là một ngoại
lệ. Nhiều học sinh ngại học hóa, lâu dần dẫn đến sợ hóa mà chẳng biết nó
cũng thú vị vô cùng. Người học hóa nói chung, đến giờ, dù sợ hay yêu
thích hóa, hẳn vẫn còn nhớ trong đầu “bài ca hóa trị” – chẳng biết do ai
sáng tạo ra, nhưng cứ lặng lẽ truyền từ thế hệ học trò này sang thế hệ
khác.
Không phải là những nốt nhạc, chỉ là những câu thơ vần điệu, dễ đọc,
dễ nhớ, dễ áp dụng, và cứ thế nó được lan truyền. Điều đó góp phần làm
cho các kiến thức hóa học tưởng như khô khan, được chắp thêm đôi cánh
của văn học, lại có hồn để bay cao, bay xa.
Đó cũng là điều làm các nhà giáo như tôi băn khoăn, trăn trở khi đứng
lớp, phải làm sao đưa những kiến thức hóa học trong sách vở đến gần với
học sinh hơn, để các em say mê, yêu thích môn hóa học. Đã có nhiều
phương pháp hay được đưa ra, đã có nhiều cải tiến được áp dụng nhằm nâng
cao chất lượng dạy va học. Ở đây, tôi mạnh dạn đề xuất thêm một phương
pháp nữa “Dạy và học hóa học qua những trang thơ”. Hy vọng rằng, đây
cũng là một cách tiếp cận mới trong việc đổi mới phương pháp dạy và học
hóa học hiện nay.
Theo ý kiến chủ quan của mình, tôi nhận thấy có thể áp dụng thơ vào giảng dạy ở tất cả các khâu của quá trình dạy học.
Trong hoạt động khởi động, dùng thơ giúp các em có một khởi đầu vào
bài nhẹ nhàng, nhưng gợi mở. Chẳng hạn, trong bài thành phần nguyên tử –
lớp 10, ta có thể khởi động bằng các vần thơ, vừa như giới thiệu thí
nghiệm, vừa như đặt ra vấn đề để người học cần suy nghĩ:
“1897 năm xưa
Bác Tôm – xơn (J.J.Thomson) đã là người tìm ra
Electron nhỏ mà
Khi phóng điện mạnh đi qua ống tròn
Áp suất khi đó cỏn con
Không khí gần hết, chẳng còn là bao
Màn huỳnh quang sáng đẹp sao
Dòng tia bị lệch gần vào cực dương
Cực âm nó đẩy như thường
Qua đó kết luận điện dương, âm nào?
Giá trị của nó là bao?
Khối lượng hiện thực thế nào em ơi?”
Nó cũng có thể dùng trong các phần khác nhau của bài học,
có thể để phát vấn hay để khẳng định một nội dung nào đó của bài. Chẳng
hạn, trong bài “Sự biến đổi tính kim loaị, tính phi kim của các nguyên
tố hóa học. Định luật tuần hoàn”, chúng ta có thể sử dụng những câu
“tính kim loại đó là gì?”, “còn tính phi kim thì sao?” để phát vấn, rồi
cùng khẳng định với học trò qua những vần thơ:
“Tính kim loại đó là gì ?
Xin thưa tính chất cho đi, dễ nhường
Của một nguyên tử bình thường
Thành phần tử mới, ion dương mà
Nếu e càng dễ tách ra
Kim loại càng mạnh, chúng ta nhớ nào
Còn tính phi kim ra sao ?
Đó là tính chất nhận vào, thêm e
Tạo ra ion âm nè
Phi kim càng mạnh, nhận e dễ nhiều”
Nhưng hay hơn cả, có lẽ là sử
dụng các câu thơ trong việc củng cố kiến thức, giúp học sinh tự học ở
nhà. Qua đó, giúp các em khắc sâu, nhớ lâu những kiến thức đã học. Ở
đây, xin dẫn ra một số ví dụ:
Khi củng cố về lai hóa obitan, giúp học sinh tự học, giáo viên có thể dùng các câu thơ sau:
“Lai hóa s-p kể tên
Một p, một s là nên duyên rồi
Tạo hai AO sánh đôi
Thẳng hàng, thẳng lối, em ơi thật tài
Còn lai hóa s-p hai (sp2)
1 s tổ hợp với hai p mà
3 AO mới tạo ra
Nằm trên mặt phẳng, hướng ba đỉnh rồi
Của tam giác đều em ơi
Từ tâm tam giác, em thời nhớ nha
Kìa lai hóa s-p ba (sp3)
Một s trộn lẫn với ba p này
4 AO mới thật hay
Hướng ra 4 đỉnh từ ngay tâm mình
Hình tứ diện đều thật xinh
Góc kia tạo được một linh chín thừa”
Hay tổng kết về bài phản ứng oxi hóa – khử, giáo viên có thể sử dụng các câu thơ như:
“Bài này nay đã học xong
Nắm các định nghĩa trong lòng bàn tay
Oxi hóa – khử thật hay
Số oxi hóa đổi thay lạ kỳ
Có chất được chuyển e đi
Đương nhiên phải có chất gì nhận e
Mùa đông cho đến mùa hè
Nhớ trường, nhớ lớp, nhớ về thăm em
Để nghe em kể mà xem
Chất khử là chất cho e thế nào
Số e nhường đi là bao
Lấy sau trừ trước thế nào cũng ra
Chất oxi hóa là ta
Nhận e của chất khử mà em ơi
Oxi hóa – khử đồng thời
Hai quá trình đó đời đời bên nhau”
Kết thúc buổi học, nếu có thể, người giáo
viên hãy động viên các em bằng một vài câu thơ, kích thích các em học
tập, có ý chí phấn đấu vươn lên:
“Em ơi tích luỹ cho mau
Ngày nay học tập, ngày sau giúp đời
Xây dựng đất nước đẹp tươi
Vững vàng muôn thưở, đời đời nghe em!”
Hoặc
“Bao năm vất vả mẹ cha
Em hãy học tốt, cả nhà đang mong,
Bài tập nên làm cho xong,
Mai này thành đạt, góp công xây đời
Nước mình ngày càng đẹp tươi
Rạng danh sông núi, biển trời của ta !”
Hay
“Em ơi hãy giữ niềm tin
Có công mài sắt, nên kim sau này
Học tập, nghiên cứu mê say
Ngày mai xây dựng nước này phồn vinh!”
Chất lượng dạy và học phụ thuộc vào cả hai yếu tố quan trọng là thầy
và trò. Nếu người thầy biết khơi dậy niềm say mê học tập, tiềm năng sáng
tạo của trò thì sẽ ngày càng nâng cao chất lượng dạy học. Còn người
học, một khi đã yêu thích và say mê môn học, các em sẽ tiến hành hoạt
động học của mình một cách tự giác, chủ động.
Hy vọng rằng, việc dạy và học hóa học qua những trang thơ là một
phương pháp trong các phương pháp dạy học mới hiện nay, nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học các môn học nói chung, hóa học nói riêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét